Bản Đồ Miền Nam Việt Nam Trước 1975
� ��k��F� �Y��֮*;�I�2KU��X��V�ݳ�o�I23�b�4�pM�h,���̇����c}g��ٞ�`$�������%��A2�dfe=���*��dĉ'N�s����[�>�����8�8�o�9�;Z������>\�x�>@D~د�_�Xu7�Qa����z��t�vGJhGs=�IXA\�nn\�vsbE:3�zZ�z哝;�j��1Ʊ�=X�z����X6��+I^��?�y��~8t�6�r��^1ݾ=ҍھ[?�8�o���Oi!qh�m,cl�]�"����>��:���wt�Z�?P�ե'����ʲ���r�Z�r۱�v�.�Ì�#�ڰ'��.�_Z�9=�� �?�2��*���cfxn�ۮb�Q`��m(�gMUU�C���q����.��5h�^U �^9��h�nZ��a)�Qe�kG��(��;�:g�ͷ�=�������v-����K��G�cj���Ï?bJ*�O �fx�:S@�����7.��ϟ� ��ϟ�'�Y��e�M�� �����A}0��+6y���"�;b���;�8�߸c��?�[f<�k�} ��*�TU ���0��k�Eϟ��>� >$�%���I����N���/ ����ۇ���[q�اϟ���P8�� ��� ���p����?�� Ҿb����{��a���Q��Kx/ �=����L��&�����[Q_����mZ�z�����}d����,�,�Cw=׆��:�ULO�ؖ� }u.D.h�o��C���w?}0::�eX=�lSπFѐ��EhV�?)�Q�8p�R_�zѦ�|J�n�PP����(4���Oa!�c�-�7�7`��Ъ�H?�Y�Y�V�����x�#}$e?���� ���������.�S�����9����6�+F���a�%��Ap�B,.�����ˣ ��F_� P1j���2 D1�^�}yt�,\9f+��ؿd \�J�Ē]B���p#� �B�(4A;��f�7�m�o�e��%�]0@-Em(jkG���F��|O��Uun�~
Bản đồ miền Trung Việt Nam khổ lớn phóng to 2024
Khu vực miền Trung của Việt Nam bao gồm 19 tỉnh và được chia thành 3 tiểu vùng chính:
Hai tiểu vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ thường được gọi chung là Duyên hải miền Trung, với dãy núi Bạch Mã và đèo Hải Vân là ranh giới tự nhiên giữa Bắc và Nam Trung Bộ. Đôi khi, Duyên hải Nam Trung Bộ được gọi tắt là Nam Trung Bộ, gây nhầm lẫn rằng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên là hai khu vực riêng biệt.
Hiện nay, bản đồ miền Trung thể hiện khu vực này có diện tích 151.234 km², chiếm 45,5% tổng diện tích cả nước, với dân số khoảng 26.460.660 người, tương đương 27,4% dân số cả nước, mật độ dân số trung bình là 175 người/km².
Miền Trung bao gồm bao nhiêu tỉnh và thành phố?
Miền Trung Việt Nam hiện có tổng cộng 19 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Các tỉnh này trải dài từ Bắc vào Nam, sở hữu sự đa dạng về địa hình và đặc điểm tự nhiên.
Danh sách các tỉnh và thành phố miền Trung bao gồm:
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng và thành phố Đà Nẵng.
Về mặt địa lý, các tỉnh miền Trung trải dài từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, sở hữu địa hình và địa thế rất đa dạng.
Bản đồ miền Trung năm 2024 sẽ giúp người sử dụng hình dung rõ ràng hơn về sự phân bố các tỉnh thành, đồng thời làm nổi bật những đặc điểm địa lý quan trọng trong khu vực này.
Màu cam: Bắc Trung Bộ Màu Xanh da trời: Duyên hải Nam Trung Bộ Màu xanh lá: Tây Nguyên
Hiện tại, miền Trung được chia thành 3 vùng nhỏ: Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, trong đó Đà Nẵng là trung tâm cấp vùng và quốc gia. Theo số liệu thống kê, tổng diện tích vùng Trung Bộ khoảng 151.234 km², chiếm 45,5% tổng diện tích cả nước. Dân số của các tỉnh miền Trung ước tính khoảng 26.460.660 người, tương đương 27,4% tổng dân số cả nước, với mật độ dân số trung bình đạt 175 người/km².
Cách đọc và hiểu các ký hiệu trên bản đồ
Bản đồ Miền Trung khổ lớn chứa rất nhiều ký hiệu và thông tin cần phải hiểu đúng để tránh nhầm lẫn. Một số ký hiệu phổ biến bạn cần lưu ý bao gồm:
Để đọc bản đồ hiệu quả, bạn nên tham khảo phần chú thích hoặc bảng chỉ dẫn (legend) của bản đồ để hiểu rõ các ký hiệu và thông tin được thể hiện.
Ứng dụng công nghệ số: Bản đồ số hóa và tương tác trực tuyến
Ngày nay, bản đồ Miền Trung khổ lớn đã được số hóa và có thể sử dụng trực tuyến trên các nền tảng như Google Maps hoặc các phần mềm bản đồ chuyên dụng. Việc sử dụng bản đồ số hóa mang lại nhiều tiện ích, bao gồm:
Các bản đồ số hóa không chỉ giúp bạn dễ dàng tìm kiếm thông tin mà còn mang đến trải nghiệm tiện lợi và hiệu quả trong việc di chuyển và lập kế hoạch.
Để sử dụng bản đồ Miền Trung khổ lớn một cách hiệu quả, bạn có thể làm theo các bước sau:
Việc sử dụng bản đồ Miền Trung khổ lớn đúng cách sẽ giúp bạn tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả công việc và có cái nhìn rõ ràng hơn về khu vực này.
Danh sách các tỉnh thành thuộc Miền Trung
Bắc Trung Bộ với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 5,15 triệu ha, là phần phía bắc của Miền Trung Việt Nam có địa bàn từ phía nam Ninh Bình tới phía bắc Đèo Hải Vân.
Bắc Trung Bộ nằm kề bên vùng Kinh tế trọng điểm Bắc bộ và vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung, trên trục giao thông Bắc Nam về đường sắt, bộ.
Các thành phố được thành lập trước năm 1975:
Các thành phố được thành lập từ năm 1994 đến nay:
Hiện tại, khu vực Bắc Trung Bộ có 3 đô thị loại I là: Thanh Hóa (tỉnh Thanh Hóa), Vinh (tỉnh Nghệ An), Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế). Các đô thị loại II bao gồm Hà Tĩnh (tỉnh Hà Tĩnh) và Đồng Hới (tỉnh Quảng Bình). Những thành phố còn lại thuộc các đô thị loại III trực thuộc tỉnh.
Duyên hải Nam Trung Bộ với diện tích tự nhiên hơn 45.000 km² (tỷ lệ 13,6% so với tổng diện tích cả nước), được chia gồm 1 thành phố Đà Nẵng và 7 tỉnh (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận), tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía nam.
Tây Nguyên hay vùng cao nguyên Nam Trung Bộ là khu vực với địa hình cao nguyên bao gồm các tỉnh xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ phía Bắc xuống Nam gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Tây Nguyên là vùng thuộc miền Trung Việt Nam. Tây Nguyên cùng với Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ hợp thành miền Trung Việt Nam.
Giao thông ở Miền Trung Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể trong vài năm gần đây, nhưng vẫn còn những thách thức cần vượt qua. Dưới đây là một số đặc điểm về giao thông ở Miền Trung:
Bản đồ khí hậu Miền Trung là một công cụ trực quan hữu ích, cung cấp cái nhìn chi tiết về sự phân bố và biến đổi khí hậu trong khu vực Miền Trung Việt Nam. Bản đồ này thể hiện rõ ràng các vùng khí hậu khác nhau, từ khí hậu nhiệt đới gió mùa ở phía Bắc đến khí hậu nhiệt đới xavan ở phía Nam, cũng như sự khác biệt về lượng mưa, nhiệt độ, và độ ẩm giữa các mùa trong năm.
Thông qua bản đồ khí hậu Miền Trung, bạn có thể:
Bản đồ khí hậu Miền Trung là một tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học, các doanh nghiệp và người dân trong việc hiểu rõ và ứng phó với các thách thức về khí hậu trong khu vực.
Bản đồ tài nguyên khu vực Miền Trung đóng vai trò thiết yếu trong việc quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Bản đồ này cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phân bổ các loại tài nguyên như sau:
Bản đồ tài nguyên Miền Trung hỗ trợ các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc:
Như vậy, bản đồ tài nguyên khu vực Miền Trung là một tài liệu tham khảo quý giá, đóng góp vào việc sử dụng hiệu quả và bảo vệ bền vững tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự phát triển bền vững cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Ứng dụng thực tiễn của bản đồ Miền Trung khổ lớn
Bản đồ Miền Trung khổ lớn không chỉ là một công cụ trực quan để quan sát tổng thể khu vực, mà còn mang lại giá trị thực tiễn cao trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Dưới đây là những ứng dụng nổi bật:
Nhờ những ứng dụng này, bản đồ Miền Trung khổ lớn không chỉ đáp ứng nhu cầu thông tin mà còn là công cụ chiến lược để phát triển bền vững khu vực.
Tổng kết lại, bản đồ Miền Trung khổ lớn là một công cụ quan trọng, giúp người sử dụng nắm bắt đầy đủ các thông tin về đặc điểm địa lý, địa hình và sự phân bổ dân cư trong khu vực. Nó cung cấp cái nhìn chi tiết về hệ thống giao thông, các thành phố, khu công nghiệp cũng như những địa danh đặc biệt khác. Hy vọng rằng bản đồ này sẽ mang lại những thông tin giá trị, hỗ trợ những ai quan tâm đến miền Trung trong việc hiểu rõ hơn về khu vực này trong năm 2024.
Meey Map | Cập Nhật Thông Tin Quy Hoạch Mới Nhất.
Meey Map là nền tảng bản đồ tìm kiếm Bất động sản và tra cứu thông tin quy hoạch trực tuyến thuộc CÔNG TY TNHH CHUYỂN ĐỔI SỐ BẤT ĐỘNG SẢN
DÒNG CA KHÚC LÃNG MẠN TRỮ TÌNH (II)
III. Những ca khúc ca ngợi quê hương
Ý niệm thiên nhiên không thể tách rời với ý niệm quê hương, đất nước. Thiên nhiên đó không phải như trong thơ văn cổ điển của Trung Hoa và Việt Nam, ở đó luôn tìm thấy toàn hình ảnh phong hoa tuyết nguyệt. Thiên nhiên đó phơi bày trước mắt, nó cụ thể ở chung quanh mình và của chính mình. Yêu thiên nhiên cũng chính là yêu quê hương của mình. Nhiều ca khúc viết về nỗi niềm yêu mến quê hương, mô tả những cảnh vật, con người và đời sống nông thôn quen thuộc và gần gũi. Nhiều tác giả tha thiết với phong vị đồng quê, yêu mến những giá trị tinh thần của dân tộc còn lưu lại nơi đồng quê. Khuynh hướng viết về thôn dã có lẽ là khuynh hướng bình dị, trong sáng, êm đềm nhất trong dòng ca khúc lãng mạn trữ tình.
Quê hương là đề tài mà nhiều nhạc sĩ chọn làm nguồn cảm hứng thiết tha để sáng tạo tác phẩm. Ở khuynh hướng này ta thấy các tác giả đưa vào tác phẩm nhiều hình ảnh quen thuộc, gần gũi của thôn quê Việt Nam từ nhiều tâm thế khác nhau làm cho tình ca quê hương thêm phong phú và ngôn ngữ âm nhạc cũng có nhiều sắc thái đa dạng.
Có thể nói nhạc sĩ Hoàng Quý (1920-1946) là người viết về quê hương của chúng ta sớm nhất. Nhà văn Duyên Anh trong bài Hoàng Quý – tâm hồn tươi sáng ấy đã viết về nhạc sĩ này như sau: “Không một nhạc sĩ nào, kể cả Phạm Duy (Tình hoài hương), Việt Lang (Tình quê hương), Chung Quân (Làng tôi)… diễn tả nổi một chiều quê mộc mạc, thơ mộng, đằm thắm và thần tiên như Hoàng Quý. Hoàng Quý trong âm nhạc tiền chiến là Nguyễn Nhược Pháp trong thi ca. Cả hai đều tươi sáng. Cả hai đều thoát khỏi cơn dịch ủy mị của một thời đại gọi là lãng mạn và ngủ vùi. Hai tâm hồn đó thật hiếm hoi ở xứ sở bất hạnh này…”.(3) Ta thấy trong Chiều quê viết theo nhịp 3/4 và bài Hương quê viết theo nhịp 2/4, tác giả đã vẽ nên khung cảnh êm đềm rõ nét của miền quê nước Việt đúng như nhà văn trên đã viết:
Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm
Chạy dài trên khóm cây đàn chim ríu rít ca
Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm
Đợi chồng con mắt trông về phía trời xa.
Lúa vàng reo ngàn muôn sóng nhấp nhô.
Ôi chiều quê chiều sao xiết êm đềm
Trông người ra ngồi âu yếm bên thềm
Chuyện trò chung với nhau đời sống thần tiên…
Tôi yêu quê nhà tôi khi ánh trăng êm đềm
Dần lên với bóng tre xanh rì rào
Hình ảnh quê hương với cây đa đầu làng gần như trở thành hình ảnh tiêu biểu cho làng quê Việt Nam:
Làng tôi có cây đa cao ngất tầng xanh
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Rõ ràng những hình ảnh êm đềm, tươi đẹp của thôn quê Việt Nam, dù bao biến cố đổi thay làm quê hương chìm trong tang tóc nhưng những hình ảnh đó vẫn mãi còn và mãi nuôi dưỡng tâm hồn người nghệ sĩ. Với nhạc sĩ Thúc Đăng, đây là một khúc samba khá sớm của tân nhạc:
Quê hương tôi gió chiều về trong nắng vàng
Ven bờ sông ai chờ mong bao hình bóng
Ôi mênh mông cánh đồng làng trong nắng tàn
Bao người đang lo cày sâu mong ngày mai.
Ngày dần trôi, ngó về phía mây,
(Thúc Đăng, Khúc nhạc đồng quê)
Hay một khúc ca yêu đời nông thôn với giai điệu nhẹ nhàng, bay bổng nghe như nhịp đi sau đây:
Cảnh đồng quê ta hôm nay đẹp tươi
(Nguyễn Văn Khánh & Dương Thiệu Tước,
Một khúc ca khác cũng khắc họa hình ảnh tươi vui của miền quê với nhịp fox rộn rã:
(Hoàng Trọng, Chiều về thôn xưa, 1952)
Nhịp điệu rộn ràng của các bài hát trên đây vẫn còn được tìm thấy trong nhiều bài hát khác, ở đó không chỉ có cảnh quan, đẹp đẽ của nông thôn mà còn nêu bật cuộc sống tươi vui, ấm cúng ở đồng quê và người dân quê chân chất, mộc mạc nữa:
Bền lòng kiên trí nêu cao gương cần lao
Mưu sống no cho quốc dân nhờ cậy trông…
Đôi khi trong những khúc hát của người dân quê, họ không quên hình ảnh một quê hương thanh bình còn khuất lấp đâu đó có thể mang lại tình cảm yêu thương chứa chan. Và đây một bài ngợi ca đời sống nông thôn rất thần tiên với nhịp luân vũ dìu dặt:
Đêm nay trăng sáng soi làng tôi
Một vài cô thôn nữ xay lúa lo ngày mai
Cười vui theo ánh trăng huyền lan
Đưa câu hò tình tứ lúa thoáng bao mùi hương
Bên hàng giậu thưa, một đoàn trai tráng
Cùng nhau ca vang câu tình quê…
Đêm nay trăng sáng soi triền miên Một chiều vương lưu luyến
Hương thoáng bay ngàn phương Làn trăng soi sáng trên dòng sông Trên ven đồi mờ thắm, chiếu khắp lên trần gian Bên bờ ruộng quê, đượm nồng hương lúa Chiều nay trăng lên trên đồng xanh. (Tiến Đạt, Trăng sáng trong làng)
Quê hương trong nhạc Phạm Duy không chỉ là cảnh đẹp êm đềm mà còn biết bao tình cảm chan chứa của những đứa con một đời gắn bó với quê hương:
Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn Nước tuôn trên đồng vuông vắn Lúa thơm cho đủ hai mùa Dân trong làng trời về khuya
Vẳng tiếng lúa đê mê. Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất Lúc tan chợ chiều xa tắp Bóng nâu trên đường bước dồn Lửa bếp nồng, vòm tre non
Quê hương ơi! Bóng đa ôm đàn em bé Nắng trưa im lìm trong lá Những con trâu lành trên đồi nằm mộng gì
Chờ nghe tôi thổi khúc sáo chơi vơi. Quê hương ơi! Tóc sương mẹ già yêu dấu Tiếng ru nỗi niềm thơ ấu Cánh tay êm tựa mái đầu Ôi bóng hình từ bao lâu
Trong đời sống đó ta còn tìm thấy hình ảnh những con vật thân thương, gần gũi gắn bó một đời với người nông dân để họ có được những hạt lúa vàng quý báu:
Trâu ơi ta cấy mùa chiêm mùa chiêm
Nghé ơi ta cày đồng hoang ta tát nước trong
Ta xây ngọn má, ta xây ruộng lúa mau mùa lúa…
Rền vang núi đồi chìm trong sương khói.
In bóng đồi nương trên bóng đường thôn…
(Nguyễn Văn Quỳ, Chiều cô thôn)
Chiều là chiều ơi Nắng chiều dần buông khắp nơi. Từng bầy chim tung cánh bay về nơi cuối trời Một đàn mục đồng ngồi vắt vẻo trên mình trâu Ngân tiếng tiêu sầu
Hòa nhịp theo câu hát đưa duyên. Đồng ruộng mênh mông
Nắng mưa cùng nhau góp công Một dòng sông nước
Xuôi ngược hai mái chèo Tình mình tuy nghèo
Mà mơ ước tát cạn biển đông Thương mến thêm mặn nồng
Một bài ca tựa như bức tranh đầy màu sắc sống động:
Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai
Trâu bò về giục mõ xa xôi ơi chiều.
Chiều ơi, áo chàm về quẩy lúa trên vai
In hình về sườn núi chơi vơi, ơi chiều…
Đối với người nông dân, đồng quê phải đi liền với hình ảnh lúa vàng – nguồn sống bao đời của dân tộc:
Lúa vàng, lúa vàng trên cánh đồng làng,
Tang tình tang tang tình tang lúa ơi!
Ðến mùa lúa chín đều rộn rịp ta hái về.
Trai tơ với lúa vàng mau tay hái đem về…
Cánh đồng mênh mông cánh đồng bát ngát
Ôi cánh đồng rào rạt lúa thơm nồng
Tới mùa lúa chín xóm làng ca hát
Đây lúa về cùng đời sống nhà nông
Vui vui lên, lúa ơi! Vui vui lên, lúa ơi! Nuôi nấng người sung sướng đời ấm no. Vui vui lên, lúa ơi! Vui vui lên, lúa ơi! Ta hát mừng bông lúa ngời xinh tươi… (Phạm Đình Chương, Được mùa)
Viết về nông thôn, nhiều nhạc sĩ không quên đưa vào bài hát của mình ngôn ngữ âm nhạc dân tộc. Chẳng hạn nhạc sĩ Minh Hiến dùng âm hưởng nhạc dân gian Huế trong bài hát sau:
Gánh gánh bao nhịp bước qua làng
Bao thân đẫm mồ hôi lưng cong dưới gánh nặng
Người nông dân không chỉ có ruộng nương, đồng lúa mà họ còn phải ra khơi đi tìm nguồn cá hoặc lên rừng kiếm gỗ để xây cơ ngơi làm đẹp cuộc sống:
Con thuyền trôi trong trời bao la
Mái chèo này chèo xa tắp bến bờ…
(Phạm Đình Chương, Tiếng dân chài)
Rừng trời khuya bao la, đoàn ta hò reo
Này cùng nông sức lên cùng lôi gỗ về
Về ta làm nhà cùng nhau sum vầy…
Cảnh sống êm đềm của người nông dân không phải bao giờ cũng trường tồn. Khi khói lửa chiến tranh đến với quê hương, muôn cảnh tang thương cũng làm buồn lòng bao người dân:
Theo khói binh lòng quê héo tàn
Ôi quạnh hiu, ôi quạnh hiu, lòng quê khô héo
Luyến tình quê, luyến tình quê hẹn sẽ trở về…
Năm xưa trăng sáng bao la làng tôi
Năm nay trăng úa rơi trên đồng hoang.
Chợ làng còn đâu cô thôn nữ chiều tan
Đường về vui bước đưa câu ca hô hò khoan…
Quê hương điêu tàn được vẽ lên trong một khúc tango habanera:
Rồi một chiều thu tôi về cố hương
Vết hoang tàn đìu hiu gió sương.
Thôn làng quạnh hiu người vắng xa…
(Dương Thiệu Tước & Minh Trang, Ôi quê xưa)
Quê hương dù đẹp tươi hay hoang tàn thì vẫn gợi lên niềm thương nhớ không nguôi và lòng người nghệ sĩ luôn mong ngóng một ngày về lại giữa quê nhà. Ở đây có tình cảm rộn ràng của người nhạc sĩ trong một khúc rumba:
Chiều vương sáo êm ru say hồn quê
Nào ai đang vui nắn khúc say mơ
Ai lắng nghe theo dòng nước trong, chiều quê…
Hay những lúc lắng hồn trong thương nhớ diệu vợi:
Ngàn dâu xanh ngắt mấy nếp tranh xa mờ
Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa
Tình quê lai láng dưới trời thu
Khói xây thành chập chùng xa đưa…
Mùa trăng êm tiếng tơ một trời còn vương
Thương nhớ quê hương, người nghệ sĩ mơ về đồng lúa trong gió chiều, mái tranh trong làn khói ấm, cánh chim ở bên sông, tiếng sáo diều u buồn:
Từ bao năm quê người sống phiêu linh
Vang tiếng tiêu ru hồn lúc chiều vàng
Gieo lòng khách mơ màng khúc thanh bình.
Từng đoàn mục đồng vui chơi bến sông
Bao cô gái làng, trong thôn hát vang
Pha tiếng cười trẻ thơ trong xóm
Đang nô đùa dưới mái nhà tranh.
Say đồng hương ngát gió đưa về.
Về đây, nghe lòng quê đang thiết tha Về đây, giang hồ bao năm cách xa Về đây, hỡi người lênh đênh nhớ quê Chân trời bâng khuâng mơ về Về với lúa vàng.
(Hoàng Giác, Hương lúa đồng quê)
Giờ này hương lúa thương gợi tình quê.
Lòng người tha hương khóc biệt ly
Giờ này ngân phím loan nặng tình phai
Giúp ta chút tình nhớ nhung ngàn xưa
Về đồng quê xưa yêu dấu êm đềm.
Nhớ những chiều hoàng hôn đầm ấm
Nhớ đây sáo diều từ chốn âm thầm
Chiều đồng quê ghi bao mối tình
Khắp trên xóm làng man mác bao la…
Niềm thương nhớ đó ở nhiều sắc độ khác nhau tùy theo tâm trạng người nghệ sĩ, song tình cảm đó sẽ rất mãnh liệt đối với khách tha hương đã rời xa quê nhà nhiều năm tháng. Bài hát chậm rãi với nhịp luân vũ dìu dặt:
Mùa xuân không còn nữa Muôn cánh hoa đào phai úa
Lối cũ rơi hững hờ. Nơi ấy bao ngày xanh qua
Hồn thơ mơ màng quá Yêu những khung trời hoa bướm
Với nắng tơ vàng êm. Yêu sao ngày thơ ấu
Đất nước chưa thay màu Những tấm lòng thương nhau
Cười nghiêng nghiêng tà áo. Năm tháng theo làn mây trôi
Ngày thơ xa dần mãi Nơi cũ dâng sầu tê tái
Sắc bướm hoa tàn phai. Hồn bướm hoa xưa còn đâu
Vườn cũ quê nhà yêu dấu Mầu nắng xưa còn lưu luyến
Hương sắc ngừng trôi trước thềm. Còn nhớ hay chăng người ơi
Chiều nào thầm nghe lá rơi Ta nắn cung đàn u sầu
(Nguyễn Hiền, Hoa bướm ngày xưa)
Chiều nay ai thấu cho cùng nỗi đau xa nhà
Thầm nhớ năm xưa ngày xa quê nhà
Ngập ngừng tay rời tay mắt còn vời trông…
Thôi mong chi ngày trở về quê hương
Đón gió tưng bừng trong nắng hanh vàng
(Hoàng Trọng & Quách Đàm, Lạnh lùng)
Đàn lòng ngân cung oán hòa theo suối trầm
Ôi kiếp tha hương cố gạt sầu vương
Lời xưa rồi đây theo gió còn bay ngàn trùng
Thề xưa còn hay lãng quên để lòng xao xuyến
Ngày về nhắc lời xưa thề bên đồi huyền mơ.
(Nguyễn Thiện Tơ, Trên đường về)
Đường về xa vời gieo thương nhớ cho lòng
Hồn quê lai láng khi ánh chiều buông
Từng đàn chim chiều tan tác bốn phương trời
Miền xa xa vắng đâu chốn cố hương
(Hoàng Trọng, lời Quang Khải, Đường về)
Sương gió phôi pha bao tình trường
Biết bao năm gió phai mùi hương
Chốn xa xăm lòng nhớ quê hương.
Trong bóng chim bay ngang về chiều
Lắng theo ngàn tiếng chuông chiều vang
(Hoàng Trọng, Buồn nhớ quê hương)
Xa quê hương từ ngày cất bước ra đi như con thuyền lạc bến, người nghệ sĩ mong ước trở về trong vòng tay đầm ấm của người thân yêu và được sống trong lòng quê hương:
Nhớ phút chia ly ngại ngần bước chân đi
Luyến tiếc bao nhiêu ngày xanh…
Trông bốn phương mờ hàng lệ thắm
Nhớ phút chia phôi cùng ai dứt đau thương
Chiều xa cố hương lắng nghe niềm thương
Chiều xa cố hương trông trời mênh mông
Ôi cánh chim chơi vơi triền miên
Lặng nhìn vầng dương phai nhớ nhung
Chiều chiều ngùi trông xa khơi mờ sóng
Từng đàn chim bay trong ánh hoàng hôn
Chơi vơi hồn ai tới chốn xa xôi
Khuất bóng kim ô chiều tàn lâm ly
Mây trời bao la. Lòng buồn sầu ước
Như lũ chim quyết tung trời mây…
Rồi một hoàng hôn ta sẽ hồi hương
Trở về quê xưa thêm bao tình thương
Bao con buồm xưa đến đón cố nhân
Với bóng thân yêu ngàn đời chờ mong
Mây trời bao la. Lòng càng thổn thức
(Lâm Tuyền, Khúc nhạc ly hương)
Hình bóng làng xưa xa mờ Thuyền ơi đi mãi mãi đâu Nổi trôi đi muôn phương? Bao nhiêu lá vàng rơi đầy Gió thoảng hoàng hôn đưa về Vẳng tiếng ai hò gần xa gieo nhớ thương. Về nơi bến xưa cho tươi thắm lòng Ðời muôn hướng dù sông nước chia đôi dòng Sóng muôn trùng thuyền ơi mau ghé bến Vui nối lại tình thương bao êm đềm. Vui nối lại tình thương đời ấm êm.
(Nguyễn Hiền & Thiện Huấn, Về bến xưa)
Đôi khi người nghệ sĩ trở về quê nhà không còn tìm lại được những hình ảnh thân yêu ngày cũ, nỗi buồn lại dâng kín:
Về đây buồn trông cánh chim bay
Say ru lòng người nhớ tới quê hương
Sầu dâng mắt nai bóng hình thôn vắng.
Luyến tiếc những ngày êm đềm ở quê hương nhiều nhất vẫn là những người tha phương chưa có được ngày trở về, họ phải sống trong niềm nhớ nhung bất tận:
Hôm nay lê bước trên đường mưa gió
Rồi đây những khi giang hồ đây đó
Bao nhiêu nỗi tơ lòng bao nhiêu nỗi u hoài
(Văn Thủy, Ra đi một chiều mưa)
Bao phen sương nhuốm bạc mái đầu
Ôi non sông ôi, thấu chăng tình sầu lữ thứ
Sống nơi quê người giờ đã mấy thu…
Lòng thiếp buồn đau đã quá nhiều
Nhớ bóng người đi một buổi chiều
(Võ Đức Thu, Tha hương mộ khúc)
Tháng ngày dần trôi, bao ngày thắm tươi
Nhớ khi rời chân, tìm theo đời sống phiêu lưu Bốn phương kiếp giang hồ chơi vơi. Sầu miên cùng non nước xa khơi Nơi chân trời ta hoài mong nhớ. Ôi bóng quê thắm đầy giấc mơ Dòng sông lặng lờ trôi dưới đồi núi xanh. Ôi làng tôi bao cảnh sắc đầy tình Dáng vương chiều nay
Xao xuyến hồn lắng mê say Thiết tha mong nhớ
(Dương Thiệu Tước & Minh Trang, Chiều lữ thứ)
Giờ đây trăng bao la tràn lan khắp nơi.
Hương nhớ chan hòa ánh trăng chờ
Gửi hồn quê trôi theo mây lững lờ
Nói về những giai điệu tha thiết của Nguyễn Đình Phúc trong Lời du tử, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Phạm Thành viết: “Một nhạc điệu nhẹ nhàng nhưng tha thiết, thâm trầm mà hùng hậu. Phải chăng tâm hồn khách lãng du đã nổi dậy trong một chiều sương?” (4).
Dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu
Người về đâu tá tới nơi quê nhà.
Đường dài chí lớn ta dừng nơi đây
Trông mây bay, trông mây bay về nơi quê nhà
Trong chiều sương sao để lệ sầu vương
Có đâu ngồi nhớ tới nơi quê nhà.
Nhạc sĩ Lê Thương có nhận xét: “Thời tiền chiến, nhất là những năm còn xa chiến tranh, lúc đó đất nước còn đủ ba “kỳ”, còn có chỗ cho họ phiêu lưu tìm hứng. Lúc đó chỉ có một đường yêu nước là nền độc lập cho quốc gia dân tộc” (5). Trong chiến tranh chống Pháp, quê hương Việt Nam bị dày xéo, quân thù gây bao cảnh điêu tàn song đối với mỗi người Việt, quê hương ấy đều thân thiết vô bờ. Người nhạc sĩ diễn tả nỗi đau khi nhìn quê hương tang tóc và nuối tiếc những nét đẹp của quê hương thanh bình với bao cảm xúc chân thành và bao giờ cũng nồng cháy. Ta hãy nghe các chàng trai nhạc sĩ tâm sự khi quê hương còn đang thời binh lửa đành phải gác tình riêng, dứt đi lời thương nhớ và hương tình ái ân:
Thiết tha chi những mối hoài mong
Ðắm hương tình khi đang giông tố
Non nước đang tràn máu anh hùng
Suối u huyền trầm lan trong gió
Quyến trăng thanh lấp lánh vàng tơ
Hờn chiến chinh vang lừng không gian
Nhớ chăng lòng quê hương nguy biến
Mau đứng lên chào đón thanh bình
(Văn Thủy & Dzoãn Cảnh, Dứt đường tơ)
Mờ trong khói tên quên đời êm ấm.
Tiếng than não nề nhắc duyên tình xưa.
Người anh dũng dứt chân bước đi
Trong bóng tre xanh hồn nước nhà
(Hoàng Trọng, lời Nguyễn Túc, Phút chia ly)
Dù duyên thề ước đắm với giấc mơ
Đem bao thắm tươi vào đời đau thương
Và cố quên đi tình người bơ vơ.
Quên tình duyên, quên cả đò xưa.
Gặp nhau năm ấy trao câu hát làm tin
Người nghệ sĩ đôi khi còn dùng môtip trong văn chương cổ điển để tô đẹp thêm hình ảnh lãng mạn của người ra đi vì sông núi:
Một chiều thu vàng trời mây u ám
Biết bao gia đình nát tan vì chiến tranh
Bên bờ Hàn giang một chàng trai tráng
Đem thân nam nhi trả nợ quê hương mến yêu…
(Dương Thiệu Tước, Bến Hàn giang)
Chiều thu xưa nàng quay tơ dệt đầy thơ Chiều thu nay tình thương vay dáng xa mờ Thuyền duyên trôi về xa xôi có thấu chăng Đàn xuân mơ chùng đường tơ em hoài trông. Ngày vinh quang đàn hòa vang về làng thôn Cùng vui say đồng nương khoai với luống cày Dệt tơ vương ngàn yêu đương luyến tháng ngày Lều tranh nương niềm uyên ương gió hương nguyền…
Ngày chinh chiến còn tan biến mùa chia phôi
Màn sương rơi ngàn mây lơi úa ven trời
Người ra đi từ chia ly lắng tin hồng
Vườn dâu mang tình quan san em chờ mong.
Người chiến sĩ ầm gió rít mưa bay
Dấn mình trong khói súng chiến trường
Áo mong manh căm thù nuôi ấm thân
Quyết gắng sức nâng cao sắc cờ…
Anh đền nợ nước theo chinh chiến
Phỉ chí tung hoành kiếp chiến binh.
Đợi lúc qua mùa hết chiến chinh
Giang sơn sáng lạn khúc thanh bình
Anh về nhịp bước say công chiến
Để nối duyên hồng lúc thắm xinh!
Hình ảnh người trai còn được mô tả trong hiện thực của đời sống bấy giờ, đó là niềm tự hào về con đường ra đi vì đất nước và lời hoan ca trong giây phút hợp quần:
Đời ta hiên ngang thề xây kiếp huy hoàng Đường xa ta đi không chút vấn vương lòng Dù nguy khốn dù đường dài Thề cùng đồng tâm quyết không phai Không hề lui bước trước gian lao Tô thắm kiếp người! Đoàn người vui trong mơ say
Với khúc ca oai hùng Nhịp đàn lên hòa cùng trời mây
Phút vui mơ màng Trời Việt Nam người người cười vang Ta cùng nắm tay ước nguyền Theo gió muôn phương
Kiếp phong sương tiến lên đường!
Bao tình thắm dâng chan hòa Lòng ngập yêu thương
Rộng bao la như trùng dương Tình chung non nước
Bao niềm ước trong tuổi xanh Những phút quyến luyến
Dưới ánh đèn đời tươi màu Tìm mộng duyên thắm ban đầu Cùng nhịp ca múa trong đêm thâu Yêu nhạc thanh tân vui hội hoa đăng. Nghe vang khúc nhạc triền miên
Lắng như mơ hồ Nghe vang những lời ca
Trìu mến như áng thơ Vui vui tiếng đàn trầm ngân
Hòa bao niềm nhớ Tình nhạc tha thiết tình đàn lưu luyến Nhạc và thơ kết duyên Nhịp nhàng ca múa chập chờn đôi lứa Mờ mờ trong bóng hoa…
(Dương Thiệu Tước, Hội hoa đăng)
Ra đi vì non nước nhưng đôi lúc người nghệ sĩ còn vương vấn chút tình nhớ thương cảnh cũ người xưa:
Nghe ầm vang lên tiếng chiến chinh
Mơ làm diều mang sáo thanh bình
Hiu hiu theo chiều gió dâng lời thầm ước
Anh nghe chăng lá vàng rụng lay lắt rót nhớ thương…
(Lương Ngọc Châu & Tử Phác, Tiếng hát lênh đênh)
Tìm hình ai trong gió mưa lạnh lùng
(Dương Thiệu Tước, Hờn sóng gió)
Tất cả tâm tình đó là sự thao thức của người thanh niên trước thời cuộc, thể hiện tấm lòng đối với quê hương. Nhưng người nghệ sĩ không chỉ dừng ở đó, họ còn phải lên đường nhập cuộc, phải đi đấu tranh giữ lấy quê nhà với tâm trạng phấn khởi, tình cảm rộn ràng:
Thề đồng tâm ta quyết thờ sông núi
Đem tâm can xây đắp ngày tươi mới…
Một lòng son, bền tâm chí, vì non nước
Anh em ơi im nghe vang âm trong rừng…
Sao cho sức trai mau hùng cường
Sắc tràn lâng lâng trong nắng hồng
Bao nguồn sáng tươi đang mong chờ…
(Dương Thiệu Tước, Dưới nắng hồng)
Chí lớn say sưa cuộc đời mưa nắng…
Khúc thanh bình vang muôn phương
Trời quê sắc hồng hoa bướm ngàn hương
Đời ta ra đi hiến thân mình cho gió mưa
Góc suối thân non quên sao tình thương… (Hoàng Trọng, lời Quách Đàm, Chiều tha hương)
Hình ảnh quê hương không chỉ là hình ảnh của đồng quê, làng xóm mà còn là hình ảnh của người thân yêu gắn bó một đời của người nghệ sĩ. Hình ảnh thường xuất hiện trong âm nhạc chính là hình ảnh người mẹ:
Hi sinh thân con đi đền nợ nước
Nước mắt ướt thấm cách biệt mẹ hiền
Người mà lòng này đầy thương mến nhiều
Đứng trước quốc biến phải đành lìa xa…
(Trần Văn Lý, lời Trần Văn Nhi, Mẹ ơi)
Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày
Mẹ tôi đau buồn nặng trĩu đôi vai
Bao năm nuôi đàn trẻ thơ nhỏ dại
Cầu mong con mình có một ngày mai…
Chiều chiều mắt hoen mờ vì con.
Ra đi con dâng đời cho gió mưa Quê người ngồi nhớ đến ngày vui qua Gió chiều thường nhắc khúc ca biệt ly Cố nhìn quê cũ lẩn trong sương mờ…
Hình ảnh của mẹ luôn gắn liền với lời ru được nghe từ lúc bé thơ được nhạc sĩ mô tả ở một tầm khái quát và khắc họa khá rõ nét về lòng thương con, sự tần tảo, tính chất phác của mẹ:
Mẹ quê, mẹ quê vất vả trăm chiều
Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu.
Bà bà mẹ quê, gà gáy trên đầu ngọn tre
Bà bà mẹ quê, chợ sớm đi chưa thấy về…
Bà bà mẹ quê, đêm sớm không nề hà chi
Bà bà mẹ quê, ngày tháng không ao ước gì
Nhỏ giọt mồ hôi vì đời trẻ vui.
Miệng khô, miệng khô nhớ bát nước đầy
Mùa đông, mùa đông manh chiếu thân gầy
Cháu bà, cháu bà ngủ ngon giấc say…
Suốt một đời mẹ vui buồn với con. Và người con mãi còn lưu giữ hình ảnh mẹ từ ngày thơ ấu để rồi khi lớn lên, trên những nẻo đường chinh chiến, người con bao giờ cũng nghĩ đến mẹ trước tiên. Chính cảm xúc chân thành ấy, đôi khi chỉ là những nét tinh tế, đơn sơ nhưng lắng đọng, đã có khả năng truyền lại cho người nghe tình cảm yêu thương người mẹ dạt dào không kém:
Ai đi về phía quê tôi Làm ơn cho nhắn vài lời nhớ thương Xa xôi buồn nhớ quê hương Mẹ già một nắng hai sương mỏi mòn. Ra đi một sáng tinh sương Mẹ ơi con vẫn nhớ lời me khuyên: "Con ơi tình nước sâu hơn Hẹn ngày chiến thắng con về vinh quang"…
Người nghệ sĩ tìm thấy trên quê hương, đất nước mình biết bao cảnh đẹp như ru hồn người. Từ Bắc đến Nam, nhiều danh lam thắng cảnh đã được ghi nhớ trong tâm khảm biết bao người. Trước hết đó là ngôi chùa từng đi vào văn chương lãng mạn:
Con thuyền đưa tôi tới nơi thần tiên
Phút mơ màng quên hết ưu phiền.
Tiếng nam mô êm êm dần lan xa xa
Mỗi phút thêm âm trong ngàn mơ.
Tiếng nam mô lâng lâng hồn tôi bay
Nếu bài hát trên mô tả cảnh đẹp ngôi chùa thì bài hát sau đây kể lại câu chuyện tình nên thơ:
(Trần Văn Khê, thơ Nguyễn Nhược Pháp,
Đây là thiên nhiên tuyệt đẹp của quê hương miền Bắc được ngợi ca:
Chiều rơi trong gió khơi đềm êm
Đằng chân mây dần trăng non lên
Ánh vàng tha thướt nước mờ trong xanh
Đằng xa xôi bóng non chập chùng
Nằm im nghe mờ trong không trung
Tiếng đàn thánh thót theo ngàn lời ca…
(Hoàng Quý, Đêm trăng trên vịnh Hạ Long)
Còn đây là cảnh đẹp hồ Gươm, biểu tượng của Hà Nội:
Bước men quanh hồ Hoàn Kiếm giữa thu chiều úa
Tôi nhớ tháng ngày sống nơi Thủ đô hồi qua
Hồ đẹp gương nước liễu xưa la đà bóng hồ
Đời vui thái bình trước lúc chiến tranh…
(Trần Văn Nhơn, Hà Nội 49, 1950)
Hình ảnh đất nước có thể là nơi chôn nhau cắt rốn ở vùng quê hay thành thị:
Bao mái nhà chìm trong sương chiều
Đôi mái kề dìu êm trên hè. Ôi trẻ khó lê la
Trong khói chiều gầm cầu chiều mưa…
(Phạm Duy Nhượng, Chiều đô thị,
Vào đến miền Trung là cảnh đẹp đất thần kinh và sông Hương được nhắc đến trong muôn lời ngợi ca:
Chiều tàn trên bến Hương giang lờ trôi
Bóng chim bay về chân núi xa vời
Chiều tàn trên bến mang theo hoàng hôn
Dòng sông buồn mơ chiếu áng mây hồng
Khóm lau mờ nghiêng mình bên dòng nước.
Bến nước mờ chan chứa bao tình Hằng Nga vừa lên nhìn qua khóm cây Dưới ánh mơ
Khách du thuyền lòng bao đắm say Hồn tràn nguồn thơ trước cảnh Hương Bình…
(Nguyễn Văn Thương, Trên sông Hương,1936)
Ðây Huế dòng Hương giang lững lờ
Nam Bình khúc nhạc gởi tình xưa
Lắng nghe khoan hò chèo lái đưa con đò.
Tới chốn thần kinh chan chứa tình
Lướt bay trên cầu, càng thắm duyên Hương Bình…
(Dương Thiệu Tước, Hương Bình lưu luyến)
Trên dòng sông Hương tiếng ca dặt dìu
Vạn vật say đắm trong chiều dịu mơ
Cánh buồm trắng còn vương vấn quanh co lượn sóng
Con đò mơ dường lưu luyến chưa theo dòng trôi
Gió ngừng quyến hàng mây đứng im soi lòng sông
Dưới trời êm chiếu dần dần buông
(Trịnh Văn Ngân, Đường tơ lưu luyến)
Các nhạc sĩ rung động trước thiên nhiên tuyệt đẹp của cố đô Huế nên đã viết nhiều bài ca thắm tình:
Dệt bằng mắt nàng nhìn đắm trời thương
Dệt bằng con thuyền lững lờ sông Hương
Nghiêng duyên cười trong nón lả lơi đều bước
Về nơi mô? Chiều Nam Giao nhớ người Bến Ngự
Dệt bằng áo người sầu nhớ phòng khuê
Dệt bằng tiếng chuông chùa ngân xa vắng
Mặc ai mơ theo trăng khúc hát yêu đời…
(Trần Nhật Bằng, Tiếng đàn trong đêm, 1952)
Về đây trong hoa lá hỡi cánh chim giang hồ
Về đây trong hương sắc thắm tươi, say mơ.
Năm tháng còn vương lời ai mong chờ.
Cô lái bên sông còn vang lời thơ…
Cho nhắn về miền Trung Tìm cuộc sống ước mơ trong cõi mộng Dòng sông Hương nước trôi
Mơ dáng người, tiếng hò lả lơi…
Mơ ước về miền Trung Tà áo tím thướt tha trong nắng hồng Nụ cười xinh thắm môi Làn tóc xõa gió đưa
Theo dáng người thương nhớ rồi! (Ngọc Bích, Mơ về sông Hương)
Một chiều tròn trăng mái chèo ngược dòng Chẳng hẹn mà quen chuyến đò chung bóng Hương Giang trôi lững lờ, Văn Lâu soi bóng mờ Róc rách khua tay chèo nhịp đưa. Đẹp là bờ vai tóc thề buông dài Làn môi mọng tươi như thầm hẹn ai Ánh mắt biếc u hoài đăm chiêu trông xa vời Như ấp ôm tâm sự đầy vơi…
Nhưng miền Trung không chỉ có cảnh đẹp hữu tình của xứ Huế. Qua bao cuộc chiến tranh, miền Trung vẫn đổ nát, đau thương:
Miền thùy dương bóng dừa ngàn thông Thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông dài. Ôi quê hương xứ dân gầy Ôi bông lúa, con sông xưa, thành phố cũ. Về miền Trung
Người về đây sống cùng người dân Lửa chinh chiến cháy bừng thôn làng điêu tàn. Đêm hôm nao gió u buồn trên sông vắng Có tiếng hát xao xuyến ánh trăng vàng. Hò hô hò! Hò hố hò! Người đi trên đống tro tàn Thương em, nhớ mẹ hương vàng về đâu Chiều khô nước mắt rưng sầu Tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi. Hò hố! Hò hô! Hà hớ hơ… Nhớ thương về chiến khu mờ Biết bao người sống mong chờ Hát rằng: Hà há hơ… Nhớ về cố hương yêu dấu xa xưa! Về miền Trung
Còn chờ mong núi về đồng xanh Một chiều nao đốt lửa rực đô thành Tay trong tay dắt nhau về quê hương cũ Không than van, không sầu nhớ. Về miền Trung
Người về đây hát bài thành công Lửa ấm áp bếp nhà ai hồng, đêm trùng. Đêm hôm nay tiếng dân nồng vang thôn xóm Có tiếng hát xao xuyến ánh trăng vàng Hò hô hò! Hò hố hò! Về đây với lúa, với nàng Thay bao nỗi khổ tiếng đàn (tôi) mừng reo. Nguồn vui đã tới với dân nghèo Con sông nước chảy, tiếng chèo hò khoan! Hò hố! Hò hô! Hà hớ hơ… Tiếng ai vừa hát qua làng Lúc em gặt lúa trên đồng Hát rằng: Hà há hơ! Tiếng cười, tiếng ca trên lúa trên sông.
(Phạm Duy, Về miền Trung, 1948)
Theo bước chân về phương Nam, thành phố Sài Gòn được xem như Hòn ngọc Viễn Đông dù trong thời loạn lạc vẫn tránh được cảnh điêu tàn nhưng vẫn còn cảnh người bơ vơ:
Bao phố phường vẫn như hồi thái bình…
(Trần Văn Nhơn, Sài Gòn xa hoa, 1950)
Trời khuya vui bước bên đường Catinat
Người đi còn dăm ba khách không nhà
Ngàn mây sao chiếu trên trời đầy mơ
Hàng cây lặng im nghe gió dưới trăng mờ
Còn kia vài ba búp bê đang nhìn
Ngồi im và vương mắt trông xa mơ hồ…
(Trần Văn Trạch, Đêm khuya trên đường Catinat)
III. Những ca khúc viết về thế giới mộng mơ
Âm nhạc lãng mạn còn ngợi ca kiếp sống lang bạt, giang hồ với hình ảnh con người phóng túng, xa rời những ràng buộc, hệ lụy của cuộc sống thực tế. Họ say sưa trong từng bước chân đi, say sưa với tiếng đàn và lời ca trên bước đường muôn dặm, say sưa kiếp sống của người lãng du. Họ luôn mang dáng vẻ của một người sắp ra đi với khát vọng khám phá những thế giới xa lạ đầy quyến rũ, tươi đẹp có thể đem lại cho họ niềm vui sống.
Mang máu giang hồ đi bốn phương
Chí lớn say sưa cuộc đời mưa nắng…
(Hoàng Trọng, lời Quách Đàm, Chiều tha hương, 1951)
Kìa gió bốn phương ào ào cuốn lá rơi
Túi đàn chân bước đi lên đường Kìa nơi xa xôi đợi chờ bao mến thương. Nhịp theo tiếng đàn Tiếng hát vang vang lừng Ta mang vui tươi tô đời thắm tưng bừng. Kìa là núi rừng với cánh lúa nơi đồng quê Với sức sống tráng hùng lòng ta say mê. Nhịp theo tiếng đàn Tiếng hát vang vang lừng Ta mang yêu đương reo về khắp bốn phương.
Không chỉ ra đi là thoát ly cuộc sống tù túng nhưng ra đi để tìm một phương trời xa lạ, một nơi thần tiên để nương náu:
Trăng nước êm, một trời đầy hoa
Bạn của Hằng Nga và vô cùng thanh thú
Lắng tai nghe nhạc réo lững lờ.
Tay đàn miệng ca và mơ màng ta múa
Gót chân thêm nhịp bước thần tiên…
Ϲầm taу ta hát, hát khúc ca уêu đời
Cho người vui. Với tình ta chan chứa bao la
Trong bước đi trên đường đời Ô kìa chàng thi sĩ đang miên man
Đi tìm bao vần thơ Ô kìa nàng ca sĩ đang saу sưa
(Canh Thân, Đi với tôi đến chốn trời xa)
Ra đi không chỉ là trường hợp riêng lẻ, đôi khi những người cùng chí hướng tụ tập với nhau thành một cộng đồng tươi trẻ đầy sinh khí:
Đoàn người tưng bừng về trong sương gió
Ánh dương lên một đoàn thanh niên
Lúc gió chiều về trong tiếng tiêu
Đoàn người đi vượt rừng qua núi
Kìa là đoàn người Việt Nam gieo thắm tươi…
(Lê Vy, lời Phạm Duy & Mai Hạnh,
Phạm Duy cảm thấy niềm vui được sống tại nơi đồng quê, nên với bài hát này ngoài tính chất hiện thực còn có thêm cả chất trữ tình nữa:
Của từng đoàn nông phu vui sống
Tan chợ chiều trên đường về cô thôn…
Ra đi như một kẻ giang hồ nhưng trong lòng bao giờ cũng vọng tưởng, mơ trở về cố hương để tìm lại những dáng xưa yêu kiều đã chìm khuất sau bước lãng du:
Rồi đi, chưa hết yên vui vội xa…
Rồi đi, thương nhớ ai nơi đò xưa.
Kiếp giang hồ đây đó biết đâu là bến bờ Bến xưa còn hay lời ước phai mờ. Mấy thu thuyền xa bến, nước trôi lời ước nguyền Cố nhân ngơ ngác chờ hình bóng thuyền mơ. Dòng sông vẫn êm đềm còn in bóng thuyền xưa Bóng thuyền vô tình lờ lững xuôi dòng. Đò đi khách se lòng, càng xa vắng càng mong Khách còn qua đò còn nhớ bóng mơ.
(Nguyễn Thiện Tơ, Qua bến năm xưa, 1949)
Đường về man mác sầu tình thương bao la
Xa bóng quê làng xưa đâu bóng ai ven sông
Thoáng bên rèm xưa mắt hoen lệ sầu thương.
Đành nghẹn trong tiếng cười cầm tay chia ly
(Nhật Bằng & Đan Thọ, Bóng quê xưa)
Mơ màng nghe tiếng chuông chiều
(Hoàng Trọng, Dừng bước giang hồ)
A ha ha! Suối in hình chiếc xe tàng
Chiếc xe lắc lư ru hồn nghệ sĩ tới nơi xa ngàn.
Xe lăn êm êm dưới ánh trăng vàng
Ca lên cho tan nỗi niềm cay đắng.
Vui ca lên đi trong chiếc xe già
Sau khi men say lắng mấy tơ đàn
Hồn ta vụt lướt lên trời xanh lam.
(Trọng Khương, Bánh xe lãng tử)
Có ai biết chăng chuyện tình cờ Có ai đoán đâu nào mà ngờ Vào một đêm trăng sáng Hồn nhạc thơ lai láng
Thiết tha êm đềm mơ hồ. Áng mây cuốn tâm hồn dịu dàng Thiết tha với cung đàn nhịp nhàng Dìu hồn ta đi tới
Miền thần tiên thanh thú Sắc hương huy hoàng nên thơ. Hào quang bốn phương huy hoàng Bầy tiên nữ đang khoe mình với cung đàn.
Nắm tay múa theo điệu nhịp nhàng Nhắp say chén men rượu nồng nàn Bầu trời trong thanh mát Ngàn người vang câu hát
Dưới hoa muôn màu huy hoàng. Có ai biết chăng chuyện tình cờ Có ai đoán đâu nào mà ngờ Chuyện thần tiên giây phút Chìm dần trong mây khói
Người ra đi giong ruổi trên bước đường lãng du nếu đôi khi lỡ quên lời hẹn ước, chắc sẽ có người bạn lòng nhắc nhở hãy trở về bên người thân chung sức xây dựng quê hương:
Hỡi người xa núi sông Chưa về tắm nắng mai hồng Xa kiếp sống bềnh bồng. Thời gian êm êm lướt nhanh Ngày xanh cho anh mấy lần Vì bao gian lao chớ nài Hẹn nhau đi tới ngày mai.
Hỡi người tôi mến yêu Say đời nắng sớm mưa chiều Yêu nước non trời mây.
Dừng lại đây cho ta còn thấy Màu khăn tay đưa nhau ngày ấy Người ra đi hẹn với tang bồng Một sớm nắng mai hương nồng Về chung say đắp non sông…
(Lâm Tuyền & Nguyễn Văn Đông, Nhắn người viễn xứ)
Người nghệ sĩ lãng mạn còn mơ ước sự thoát ly cuộc đời trần gian, muốn thoát tục để đi tìm thế giới mộng tưởng. Cũng như chủ nghĩa lãng mạn ở phương Tây, các nghệ sĩ Việt Nam cũng mê đắm thế giới thần tiên, thế giới mơ ước thường rất đậm nét trong văn chương phương Đông: giấc mộng Nam Kha – giấc mộng hoàng lương trong thế giới của Trang Tử. Một bài hát ru hồn về thế giới êm đẹp đó với nhịp điệu luân vũ dịu dàng:
Nhịp bước thướt tha tà áo mơ màng.
Vì trăng khuất sau đám mây còn đâu.
Thế giới cõi tiên cũng đầy quyến rũ làm nhiều nhạc sĩ đắm say:
Lướt mình theo với bao cung đàn
Chiếu nhẹ muôn sắc chốn thần tiên
Đắm mình say trong giấc mơ vàng…
(Trần Nhật Bằng, Nàng tiên trắng)
Lá đào rơi rắc lối thiên thai Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh một bước trần ai Ước cũ duyên thừa có thế thôi. Ðá mòn rêu nhạt nước chảy huê trôi Cái hạc bay lên vút tận trời Trời đất từ nay xa cách mãi Cửa động đầu non đường lối cũ Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
(Võ Đức Thu, thơ Tản Đà, Tống biệt)
Thế giới gần gũi nhất là thế giới trên cung trăng, vốn hấp dẫn cả trẻ em lẫn người lớn. Cung trăng cho người nghệ sĩ một thế giới tưởng tượng, ở đó cảnh vật cũng như chị Hằng bao giờ cũng tuyệt đẹp:
Tươi sáng kia sao vàng lấp lánh
Chiếu ánh vàng giữa bầu trời xanh.
(Minh Ký, lời Mộng Lan, Chị Hằng, 1953)
Còn đây là câu chuyện tình Trung Hoa đã gợi bao cảm hứng cho nhạc sĩ. Bài hát Gấm vàng là một trong những bài hát của vở kịch Khói Lửa Cảo Kinh. Hình như chỉ có bản nhạc được phổ biến, còn vở kịch cũng chưa bao giờ lên sân khấu. Vở kịch này nguyên thủy là một vở kịch thơ, tác giả là Vũ Hân. Đó là câu chuyện U Vương – Bao Tự. U Vương, vua nhà Chu, say đắm Bao Tự; mà Bao Tự lúc nào cũng buồn, không bao giờ cười. Một hôm, thấy Bao Tự có vẻ vui khi nghe tiếng xé lụa, nhà vua ra lệnh tập trung các thứ vải quý như gấm, lụa để các cung nữ vừa múa hát vừa xé gấm xé lụa… nhưng người đẹp Bao Tự vẫn không cười. Bài hát Gấm vàng thuộc đoạn này trong vở kịch. Giai nhân trong câu hát chính là Bao Tự vậy:
Tóc quên cài nàng say sưa múa hát
Gấm ái, gấm ân, gấm của sông Ngân
Tung bướm lên khơi Cánh vàng lấp lánh chập chờn rơi. Rơi trên mình cô áo xanh áo đỏ Uốn lả lơi nhịp nhàng
Bướm đậu trên ngàn Trên ngàn tơ liễu biếc
Mỹ nhân đưa mắt ngắm Bướm thẹn đôi cánh rung rinh. (Dương Minh Ninh, lời Vũ Hân, Gấm vàng)
Bên cạnh thế giới cõi tiên đó, các nhạc sĩ còn khai thác những hình tượng nghệ thuật từ trong truyện kể dân gian và trong truyền thuyết. Thật vậy chủ đề mộng mơ trong dòng nhạc lãng mạn trữ tình thật phong phú có thể làm thăng hoa tâm hồn con người qua những cung đàn muôn điệu.
Dòng ca khúc lãng mạn trữ tình từ khi mới hình thành đã có vị trí xứng đáng do giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của nó, đã tác động và khơi nguồn sáng tác cho nhiều lớp nhạc sĩ kế tiếp chọn lựa khuynh hướng này. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, bên cạnh nhiều khuynh hướng âm nhạc khác ra đời, âm nhạc lãng mạn trữ tình vẫn không bị đánh mất giá trị và vai trò của nó. Âm nhạc lãng mạn vẫn là chỗ dựa tinh thần cho nhiều tâm hồn lớp thanh niên lớn lên giữa hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến chuyển. Nó còn có đời sống lâu dài và trở thành một phần di sản nghệ thuật quý báu của nền tân nhạc Việt Nam.
(1) Tiếng hát những ngày chưa chiến tranh, in trong tập Nhạc tiền chiến, Kẻ Sĩ xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr.7.
(2) Theo các tác giả cuốn Âm nhạc mới Việt Nam – tiến trình và thành tựu, bài hát đầu tiên của tân nhạc là bài Cùng nhau đi hồng binh của Đinh Nhu xuất hiện vào năm 1930. Cần phải xác định tiêu chí khi khẳng định bài hát đầu tiên, đó là bài hát phải được phổ biến rộng rãi, ít nhất bắt đần từ một cộng đồng nào đó hoặc được công bố bằng văn bản. Bài của Đinh Nhu chỉ được một số bạn tù truyền khẩu, sau này được ký âm mới phổ biến. Nhạc sĩ Lê Thương cho biết từ năm 1933-1934, hai nghệ sĩ Tư Chơi (Huỳnh Hữu Trung) và Năm Châu (Nguyễn Thành Châu) đã đề xướng phong trào ‘bài hát ta điệu Tây”. Tiếp đó năm 1938 nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên ra Bắc hô hào phát triển tân nhạc rồi sau đó báo Ngày Nay đăng bài hát Kiếp hoa của ông. Đó là hai thời điểm cần lưu ý. Song trước đó một số bài hát được trình diễn từ năm 1935 thì cũng phải được nhắc đến. Trong khi đó theo nhạc sĩ Tô Vũ, một tu sĩ Công giáo đã viết thánh ca bằng tiếng Việt đầu tiên từ năm 1911. Vị tu sĩ đó là linh mục Phaolô Đoàn Quang Đạt (1877-1956), người sáng tác thánh ca theo ký âm pháp Tây phương, trong đó có bài Nửa đêm mừng Chúa ra đời. Đây có thể là thời điểm hình thành nền tân nhạc VN.
(3) Hương quê – mười ca khúc của cố nhạc sĩ Hoàng Quý, Sài Gòn, 1974, tr. 5.
(4) Nhạc tiền chiến, Đổ Kim Bảng tuyển chọn, Kẻ Sĩ xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr.8.
(5) Nhạc tiền chiến, Đổ Kim Bảng tuyển chọn, Kẻ Sĩ xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr.70.