Thái độ có thể được mô tả dưới 6 đặc điểm chính:

Nét đẹp trang phục của người Lào

Là một trong những dân tộc nằm trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào có trang phục đặc sắc thể hiện nét riêng trong bản sắc văn hóa của mình. Trang phục của dân tộc Lào là sự kết hợp giữa màu sắc, họa tiết được làm thủ công tạo nên những sản phẩm trang phục độc đáo và đẹp mắt phản ánh sự ảnh hưởng của địa lý, khí hậu cũng như lịch sử, văn hóa độc đáo của họ.

Người Lào ở Tam Đường (Lai Châu) trong những bộ trang phục truyền thống độc đáo.

Dân tộc Lào sinh sống chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên... Theo truyền thống trang phục của dân tộc Lào mặc đều do phụ nữ tự thu bông, kéo tằm, nhuộm vải, dệt và phải tự thêu hoa văn theo hoa tay của mình. Trang phục của dân tộc Lào là sự kết hợp giữa màu sắc, họa tiết được làm thủ công tạo nên những sản phẩm trang phục độc đáo và đẹp mắt phản ánh sự ảnh hưởng của địa lý, khí hậu cũng như lịch sử, văn hóa độc đáo của họ.

Trang phục của 2 thế hệ phụ nữ Lào.

Trang phục của phụ nữ dân tộc Lào thường gồm váy, áo, khăn trước ngực, khăn đội đầu. Phụ nữ Lào mặc áo ngắn với váy dài tầm bắp chân thắt ngang ngực. Gấu váy thêu hoa văn màu tươi sáng. Ngoài áo ngắn ra thì phụ nữ Lào còn dùng áo dài được may bằng vải nhuộm chàm. Trước ngực được quàng chéo chiếc khăn. Để tôn thêm dáng vóc thon thả, phụ nữ Lào thắt thêm những chiếc dây thắt lưng bằng đồng hoặc bằng bạc.

Các họa tiết hoa văn thêu trên áo hay khăn thể hiện tinh hoa văn hóa dân gian được giữ gìn và truyền lại qua nhiều thế hệ gắn với những câu chuyện dân gian mang ý nghĩa của sự may mắn và sức khỏe cho họ. Người Lào thường dệt những hoa văn hình rồng cổ đỏ, con hổ, đôi rắn quấn vào nhau, hình người cưỡi voi… Ngoài ra tùy vào hoa tay họ sẽ sáng tạo ra nhiều hoa văn liên quan đến hoa lá trong thiên nhiên.

Ngoài ra, phụ nữ Lào còn có thói quen đeo nhiều phụ kiện trang sức như vòng cổ, khuyên tai…đi kèm tạo sự đặc sắc cho bộ trang phục. Những món trang sức này thường làm bằng đồng, bạc với họa tiết tinh xảo.

Những người phụ nữ Lào thành thạo việc may vá.

Để thực hiện được một bộ trang phục, phụ nữ dân tộc Lào thường mất khoảng 2 tháng vì làm thủ công hoàn toàn. Ngày nay, phụ nữ Lào vẫn dệt vải và truyền lại cho thế hệ sau, một số họa tiết hoa văn mới ra đời nhưng những hoa văn truyền thống vẫn được ưa chuộng và xuất hiện chủ yếu trên bộ trang phục của phụ nữ Lào.

Đàn ông dân tộc Lào thường mặc quần dài áo cộc, đầu đội khăn. Khăn được dệt bằng vải thô màu trắng, dài từ 70 đến 150 cm. Hai đầu khăn trang trí hình hoa văn hình chữ nhật thêu các ô hình chữ nhật kẻ với nhiều màu sắc.

Du khách mặc thử một bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Lào.

Đến nay, người dân tộc Lào thường mặc trang phục truyền thống vào dịp lễ tết để tham gia các hoạt động văn hóa, chơi các trò chơi dân gian./.

Trang phục Thái Lan chia ra làm 2 dạng: trang phục truyền thống bao gồm các loại( trang phục thường ngày và vào các ngày lễ) và trang phục hiện đại. Đặc điểm cơ bản của trang phục truyền thống của người Thái là không may vừa sát người. Thay vì thế chúng được may từ các mảnh vải lụa hay vải bông hẹp được nối, gấp, cuộn thành nhiều loại áo quần đa dạng.

Trang phục truyền thống của Thái Lan được gọi là chut thai (tiếng Thái:ชุดไทย), có nghĩa đen là "trang phục Thái". Nó có thể được mặc bởi đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Chut thai cho phụ nữ thường bao gồm một pha nung hoặc chong kraben, áo cánh và sabai. Phụ nữ miền Bắc và Đông Bắc có thể mặc váy sinh thay vì pha nung và mặc quần dài với áo cánh hoặc áo cài không cổ suea pat. Chut thai cho nam bao gồm một chiếc kraben hoặc quần chong, áo sơ mi họa tiết Raj, với vớ trắng dài đến đầu gối tùy chọn và một chiếc sabai. Chut thai cho đàn ông miền bắc Thái Lan bao gồm một sado, áo khoác kiểu Manchu màu trắng, và đôi khi là khian hua. Trong những dịp trang trọng, mọi người có thể chọn mặc một trang phục được gọi là quốc phục chính thức của Thái Lan.

Pha nung (tiếng Thái: ผ้านุ่ง, RTGS: pha nung, phát âm tiếng Thái: [pʰâː nûŋ]) là một sản phẩm may mặc truyền thống được mặc ở Thái Lan. Dải vải dài được quấn quanh eo, vươn xuống dưới đầu gối. Vải đôi khi được truyền qua giữa hai chân và được giấu ở phía sau theo cách gọi là chong kraben. Quần áo thường được kết hợp với một hom hom, một loại vải tương tự được sử dụng để che thân trên.

Chong kraben hoặc Chang kben (tiếng Thái: โจงกระเบน; Phát âm tiếng Thái: [tɕoːŋ.kra.beːn]) là biến thể khác của Chok Kbinh có nguồn gốc từ Campuchia. Nó là một loại vải quấn quanh người thấp hơn giống với sampot Khmer. Sampot là một miếng vải hình chữ nhật dài đeo quanh thân dưới. Chiếc váy truyền thống tương tự như dhoti của Nam Á. Chiếc kraben trông giống với quần hơn váy. Nó là một mảnh vải hình chữ nhật dài ba mét và rộng một mét. Nó được mặc bằng cách quấn quanh thắt lưng, kéo dài ra khỏi cơ thể, xoắn hai đầu lại với nhau sau đó kéo vải xoắn giữa hai chân và nhét nó ở phía sau thắt lưng.

Sinh (tiếng Lào:, phát âm tiếng Lào: [sȉn]; tiếng Thái: ซิ่น, phát âm tiếng Thái: [sîn]) là trang phục truyền thống được mặc bởi phụ nữ Lào và Thái Lan cùng các sắc tộc Thái ( Tai) khác, đặc biệt là phụ nữ Bắc Thái Lan và đông bắc Thái Lan. Đó là một chiếc váy ống có thể xác định người phụ nữ mặc nó theo nhiều cách khác nhau. Đặc biệt, hoa văn của nó có thể chỉ ra nơi xuất xứ hoặc khu vực của người mặc . Ở Thái Lan ngày nay, sinh thường được mặc trong các sự kiện đặc biệt. Tuy nhiên, ở Lào sinh thường được mặc thường xuyên hơn trong cuộc sống hàng ngày.

Sabai (tiếng Thái: Tiếng Thái phát âm: [sa.baj]) hoặc pha biang (tiếng Thái: ผ้าเบี่ยง Cách phát âm tiếng Thái: [pʰâː.bìaŋ]) là quần áo giống như khăn choàng, hoặc vải ngực. Sabai có thể được sử dụng bởi phụ nữ hoặc nam giới. Sabai còn được gọi là một mảnh lụa dài, rộng khoảng một feet, rủ theo đường chéo quanh ngực bằng cách che một vai mà phần cuối của nó rơi ra sau lưng. Sabais có thể được đeo quanh ngực trần hoặc trên một tấm vải khác. Tập tục mặc Sabai cùng với vải Victoria là một thói quen phổ biến dưới thời vua Chulalongkorn và kéo dài cho đến thời vua Vajiravudh khi quần áo phương Tây trở nên thời thượng hơn. Việc mặc sabais như trang phục hàng ngày đã bị Plaek Pibulsonggram chính thức cấm trong quá trình cải cách quần áo của Thái Lan.

Xửa pạt (tiếng Lào: ເສື້ອ Phát âm tiếng Lào: [sɯ̏a.pát], tiếng Bắc Thái: เสื้อ ปั๊ Tiếng Bắc phát âm: [sɯ̋a.pát]) hoặc xửa pai (tiếng Lào: ເສື້ອ ປ້າຍ Tiếng Lào phát âm: [sɯ̏a.pâaj], tiếng Bắc Thái: ป้ ย Phát âm Bắc Thái: [sɯ̋a.pa̋aj]) là một loại áo được mặc bởi phụ nữ từ các dân tộc khác nhau ở Lào và Bắc Thái Lan và các khu vực khác ở Đông Nam Á. Những nhóm dân tộc này thường bao gồm Lào, Lự, Làn Nà (Northern Thai people), Shan (Người Shan),...

Các xửa pạt là một chiếc áo dài tay không có nút. Nó được mặc bằng cách bọc bên phải của vạt trước của áo qua phía bên trái của vạt trước, và hai vạt được gắn với nhau thông qua các chuỗi. Xửa pạt từ Luông Pha Băng, Lào thường có vòng cổ to màu vàng lớn.

Raj pattern (tiếng Thái: ราชปะแตน; tiếng Thái: Rát-cha pà-ten) đề cập đến một bộ trang phục nam Thái Lan bao gồm một chiếc áo khoác kiểu Nehru màu trắng với năm nút, một chiếc kraben chong, tất dài đến đầu gối và giày. Nó được mặc chủ yếu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 của các quan chức chính phủ và giới thượng lưu ở Bangkok, và ngày nay được sử dụng trong các trường hợp được chọn làm trang phục dân tộc.

Phakhaoma (tiếng Thái: ผ้าขาวม้า; Phát âm tiếng Thái: [phá-khảo-ma]) là loại quần đùi truyền thống của nam giới Thái. Họ có thể mặc ngay khi đang làm việc hoặc chuẩn bị tắm bởi tính tiện lợi, dễ vận động.

Các triều đình Thái ở thế kỷ 19 cổ động cho sự thay đổi trong cách ăn mặc của người Thái, họ thích một vẻ ngoài có dạng Tây Phương hơn. Đàn ông bắt đầu mặc áo sơ mi, và với cả hai phái thì quần áo may sẵn bắt đầu được ưa chuộng hơn.

Sau Thế chiến thứ Hai, chính phủ khuyến khích việc chuyển sang ăn mặc hoàn toàn theo kiểu phương Tây. Giờ đây phasin bị coi như trang phục của người nghèo và những người vùng quê. Người ta chỉ còn mặc nó ở nơi thôn quê hay tại các đám rước trong các ngày lễ hội.