Hợp Đồng Lao Động Cho Nhân Viên Kinh Doanh
Nguyễn Trung Nghĩa – 25 tuổi, là kỹ sư đứng máy làm việc tại Công ty TNHH chuyên về lọc bụi, lọc khí ở quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã được 3 năm. Từ khi mới ra trường chưa có kinh nghiệm, Nghĩa được công ty tạo điều kiện để nâng cao tay nghề và thực hiện đúng chính sách lương, thưởng thỏa đáng, Nghĩa đã cống hiến hết mình cho doanh nghiệp.
Người lao động không được bảo vệ và rơi vào tình trạng thất nghiệp không có nguồn tài chính hỗ trợ
Nếu cá nhân ký kết hợp đồng dịch vụ thay vì hợp đồng lao động với doanh nghiệp, cá nhân này không được xem là “người lao động” và do đó không được hưởng các quyền lợi cơ bản của người lao động như mức lương tối thiểu, thời giờ làm việc – nghỉ ngơi, lương khi làm thêm giờ, quyền gia nhập Công đoàn, v.v. Đồng thời, nếu cho phép ký hợp đồng dịch vụ với cá nhân một cách thoải mái, doanh nghiệp có thể nghĩ rằng thời hạn của hợp đồng dịch vụ là tuỳ theo ý của doanh nghiệp (người sử dụng dịch vụ) và họ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ bất kỳ lúc nào đối với cá nhân cung cấp dịch vụ mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật lao động. Do đó, quyền lợi chính đáng của người lao động sẽ bị ảnh hưởng và không được bảo vệ theo luật lao động, gây ra tình trạng thất nghiệp nhưng không có nguồn tài chính hỗ trợ cho giai đoạn thất nghiệp (như tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, tiền bồi thường do bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật hoặc tiền hỗ trợ khác khi thôi việc theo quy định của pháp luật lao động) để người lao động có thể an tâm đi tìm công việc mới. Điều này có thể dẫn đến tệ nạn phát sinh trong xã hội do thất nghiệp gây ra.
Hiểu nhầm về việc đã nộp xong thuế thu nhập cá nhân (TNCN) thì có nghĩa là việc ký kết hợp đồng dịch vụ đã được chấp nhận
Nhiều doanh nghiệp cho rằng, thực tế họ vẫn ký hợp đồng dịch vụ với các cá nhân và họ vẫn hoàn thành nghĩa vụ khấu trừ thuế TNCN đối với những cá nhân này (10% đối với cá nhân cư trú, 20% đối với cá nhân không cư trú), họ vẫn nộp thuế đầy đủ và cơ quan thuế vẫn chấp nhận tức là không có rủi ro khi ký hợp đồng dịch vụ với cá nhân. Thậm chí, họ nghĩ rằng khi cơ quan thuế vẫn chấp nhận những phí dịch vụ trả cho các cá nhân như là chi phí được khấu trừ để tính thuế thu nhập doanh nghiệp thì có nghĩa là họ có thể ký hợp đồng dịch vụ với cá nhân thay vì hợp đồng lao động.
Hiện nay, nếu tranh chấp xảy ra, Toà án là cơ quan có quyền quyết định các bên đúng hay sai, các cơ quan hành chính (như cơ quan thuế) không có quyền hạn này mà chỉ đưa ra ý kiến, hướng dẫn để doanh nghiệp thực hiện làm sao cho đúng với quy định nhất. Trên thực tế, các cơ quan hành chính của Việt Nam hiện nay (như cơ quan thuế, lao động, bảo hiểm) không thể quản lý chéo công việc của nhau, tức cơ quan thuế thì không thể quản lý công việc của cơ quan bảo hiểm hoặc lao động và ngược lại. Do đó, nếu một cá nhân hoặc doanh nghiệp muốn nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước thì cơ quan thuế luôn chào đón mà không cần phải biết có vi phạm về pháp luật lao động hay không và càng không có lý do gì để từ chối vì có thu còn hơn là không thu, không thu được hoặc không biết để mà thu. Việc thu đúng hay không đúng số thuế hoặc có vi phạm trong vấn đề liên quan đến xác định quan hệ để tính thuế cho đúng, sẽ được kiểm tra và xác minh trong quá trình kiểm tra/thanh tra của cơ quan thuế đối với từng doanh nghiệp cụ thể. Thậm chí, nếu doanh nghiệp cho rằng cơ quan thuế sai trong việc tính thuế, ra quyết định truy thu thuế, doanh nghiệp vẫn có thể khiếu nại hoặc khởi kiện hành chính cơ quan thuế tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (bao gồm Toà án).
Thực tế là do có quá nhiều doanh nghiệp hiện nay nghĩ và làm không đúng (ký hợp đồng dịch vụ với cá nhân không đúng luật) nhưng chưa bị xử lý khiến doanh nghiệp hiểu nhầm việc ký hợp đồng dịch vụ vẫn được cơ quan Nhà nước chấp nhận, kéo theo hệ quả là những doanh nghiệp khác bắt chước làm theo. Đồng thời, do các cơ quan Nhà nước cũng không thể nắm bắt hết các vi phạm để tiến hành kiểm tra nên họ chỉ tập trung giải quyết những trường hợp mà họ có thể biết và quản lý hiện tại để tránh tồn đọng và đạt chỉ tiêu hàng năm do Nhà nước đề ra cho đơn vị hoặc cơ quan của họ. Điều này không có nghĩa là họ sẽ làm lơ cho các doanh nghiệp vi phạm trong tương lai, mà vì hiện tại họ chưa có điều kiện hoặc thời gian để tiến hành kiểm tra.
Chúng tôi xin trích dẫn Công văn 1019/TCT-TNCN ngày 25/03/2015 (http://thuvienphapluat.vn/cong-van/Thue-Phi-Le-Phi/Cong-van-1019-TCT-TNCN-2015-giai-dap-chinh-sach-thue-269890.aspx) để bạn đọc tham khảo. Theo công văn này, Tổng Cục thuế cho ý kiến rằng thu nhập từ hợp đồng ký với cá nhân (không có đăng ký kinh doanh) là thu nhập từ tiền công, tiền lương. Như vậy, Tổng Cục thuế (mặc dù không nói rõ [theo nội dung công văn hỏi] hợp đồng này là hợp đồng lao động hay dịch vụ) cho rằng yếu tố không đăng ký kinh doanh sẽ là cơ sở để xác định thu nhập là tiền công, tiền lương theo quan hệ lao động; nói cách khác, quan hệ giữa doanh nghiệp và cá nhân không đăng ký kinh doanh là quan hệ lao động chứ không phải quan hệ cung ứng dịch vụ.
Như vậy để ký hợp đồng dịch vụ với cá nhân thì cá nhân đó cần tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định (chủ yếu là theo pháp luật doanh nghiệp). Nếu doanh nghiệp thực hiện ký hợp đồng dịch vụ với cá nhân không đăng ký kinh doanh là trái với quy định pháp luật như đã phân tích ở trên.
Một ý kiến khác (theo chủ quan của chúng tôi) là nếu cơ quan Nhà nước và pháp luật Việt Nam thực sự công nhận tính hợp pháp của hợp đồng dịch vụ được ký với cá nhân không có đăng ký kinh doanh theo luật định thì có lẽ không cần có sự tồn tại của pháp luật lao động cũng như các quy định về bảo hiểm xã hội, y tế và thất nghiệp.
Quy định pháp luật đã rõ ràng, vấn đề còn lại là doanh nghiệp và các cá nhân có muốn thực hiện theo đúng luật hay không mà thôi; và nếu chấp nhận thực hiện không đúng luật thì cũng nên sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi tranh chấp xảy ra.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi hoặc thắc mắc về quy định của pháp luật lao động Việt Nam, các luật sư lao động và việc làm kinh nghiệm của chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp tại [email protected].
Thất thu Ngân sách và mặt bằng lương thấp
Bảo hiểm là một trong những nguồn thu góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước và tăng cường tích lũy xã hội. Việc các doanh nghiệp lợi dụng việc ký hợp đồng dịch vụ với cá nhân thay cho việc ký kết hợp đồng lao động để không phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho người lao động theo quy định của pháp luật sẽ làm giảm nguồn quỹ bảo hiểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến Ngân sách Nhà nước cũng như việc thực hiện chế độ an sinh xã hội của Nhà nước.
Hơn nữa, mặt bằng lương tại Việt Nam còn rất thấp, nếu không thực hiện đúng các chế độ bảo hiểm theo luật định thì người lao động cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn về tài chính. Người lao động sẽ không có khoản bù đắp, hỗ trợ từ quỹ bảo hiểm khi mất việc, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cũng như phần thu nhập mất đi khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, hoặc phần lương hưu khi họ hết tuổi lao động, trợ cấp tuất, trợ cấp mai táng khi chết, v.v.